Cá tầm trắng (Sturgeon) là loài cá thuộc gia đình cá Acipenseridae, một loài cá được xem là ‘bán khai’ (primitive). Cá có thân dài và rất thuôn, thường di chuyển nhiều và thay đổi nhiều vùng sinh thái khác nhau. Cá tầm trắng có thể có cân nặng đến hơn 1 tấn và có chiều dài trên 4m. Loài cá này đã xuất hiện trên trái đất khoảng hơn 100 triệu năm trước, và hiện tại được người ta chia làm 4 chủng loại khác nhau gồm 25 loài, bao gồm cá tầm mũi ngắn, cá tầm sao, cá tầm trắng, cá tầm beluga và sterlet.
Mục lục
Giới thiệu cá tầm trắng

Cá tầm không chỉ là loài cá nước ngọt lớn nhất mà còn là loài sống lâu nhất: Có con sống đến hơn 150 tuổi. Tuổi của cá phù hợp với chiều dài thân cá: Cá 12 tuổi dài chừng 1,2 m; và cá 20 tuổi chừng 1,8 m. Cá chỉ gặp ở vùng Bắc Bán Cầu và thường gặp tại Bắc Ðại Tây Dương, Bắc Thái Bình Dương, Vùng Biển Caspian, Biển Ðen, tại nhiều sông và hồ như sông Delaware, Rhin, Garonne, Elbe, Volga, Danube và hồ Ladoga.
Cũng như cá đuối, cá mập, cá tầm thuộc loại cá không xương: bộ xương chỉ là những sụn. Thân cá hình ống gồm 5 hàng xương gai (sụn), da dầy, nhám không vảy, màu sắc thay đổi tùy loài, tuổi và tùy vùng sinh thái. Ðuôi cá dạng chia chẻ đôi. Miệng cá nhỏ nằm ngang, không răng; mũi dài nhọn có 4 râu hình trụ cứng, dùng quậy để kiếm mồi.
Phân biệt đực cái có ý nghĩa rất quan trọng trong kỹ thuật nuôi cá tầm. Người ta thường phải nuôi riêng cá đực và cá cái để có chế độ chăm sóc khác nhau. Mặt khác kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hiện nay không cần phải có nhiều cá đực. Do tuổi phát dục cá tầm rất muộn nên phân tách sớm cá đực và cá cái giúp giảm chi phí nuôi vỗ, trong khâu sinh sản nhân tạo tránh được lãng phí thuốc khi tiêm nhầm cá.
Nguyên nhân gây bệnh ở cá tầm trắng

Tìm hiểu bệnh virut ở cá tầm trắng: nguyên nhân gây bệnh, dấu hiệu của bệnh, sự lây truyền và tỷ lệ chết của bệnh, phòng ngừa bệnh. Do iridovirus là một thành viên thuộc họ Iridoviridae. Đối tượng vật chủ bị nhiễm tự nhiên được biết chủ yếu là cá tầm trắng, mặc dù tác nhân gây bệnh tương tự virus cũng được tìm thấy ở cá tầm Nga, cá tầm da vàng nhợt và cá tầm mũi xẻng.
Không có bằng chứng cho thấy virus này lây nhiễm trên loài cá khác ngoài cá tầm. Các thực nghiệm lây nhiễm nhưng không thấy bệnh xuất hiện ở cá Tầm Đại Tây Dương. Virus nhân bản bên trong của da và mang cá và từ đó phát tán trực tiếp vào nước. Và cơ chế lây truyền virus liên quan qua trứng cá chưa được biết đến.
>> Xem thêm các bài viết liên quan tại chuyên mục Phòng và trị bệnh thủy sản.
Dấu hiệu của bệnh virut
Cá bị nhiễm bệnh có xu hướng giảm ăn có thể là do các biểu mô cảm giác trong cơ quan khứu giác của cá bị nhiễm trùng. Vì thế con cá sẽ bị giảm trọng lượng trong thời gian bệnh bùng phát. Mang của cá bị nhiễm bệnh nhìn có vẻ bị sưng và màu nhạt đi so với màu mang của cá bình thường. Kiểm tra kỹ có thể nhìn thấy những khu vực bị hoại tử riêng biệt.
Bệnh dễ dàng lây lan trong nước, nhưng sự lây nhiễm. Có thể được lan truyền giữa những khu vực nuôi với sự di chuyển của những con cá bị nhiễm bệnh. Bệnh gây chết tới 95% cho cá tầm con dưới 1 tuổi. Hầu hết bệnh dịch sảy ra ở nhiệt độ nước từ 17-19 độ C. Nhưng sự lây nhiễm có thể sảy ra ở trong khoảng nhiệt độ 10 đến 23 độ C. Việc thả nuôi với mật độ cao được cho là một trong những nhân tố. Góp phần làm cho dịch bệnh trở nên nghiêm trọng.
Hiện nay chưa có biện pháp nào kiểm soát và phòng ngừa hiệu quả cho bệnh này. Bởi vì hiện tại chưa có phương pháp nào để phát hiện virus gây bệnh trong đàn cá bố mẹ. Cách li và điều tra những con cá con bị chết hoặc có dấu hiệu nhiễm bệnh. Ở giai đoạn cá còn nhỏ chủ yếu là để biết được sự xuất hiện của bệnh trong đàn cá sau này.