Cá mú(cá song) là loại thuộc loài cá vùng nước ấm, thường phân bố ở các vùng biển nhiệt đới, á nhiệt đới và phân bố rất ít ở vùng ôn đới. Riêng vùng biển Thái Bình Dương có tới 37 loài, Trung Quốc có 31 loài, Nhật Bản có 25 loài, Đài Loan có 27 loài và Hồng Kông có 17 loài. Ở phạm vi nước ta cá song (hay còn được gọi là cá mú có khoảng trên 30 loài, trong đó có các loài có giá trị kinh tế, giá trị xuất khẩu cao. Bên cạnh đó, ngành nuôi trồng thủy sản nước ta cũng cần có những biện pháp để phòng và chữa bệnh hoại tử thần kinh trên cá Mú.
Mục lục
Giới thiệu về cá mú
Cá mú thường sống ở các hốc đá, các áng, vùng ven bờ quanh các đảo có rạn đá san hô. Thường ở độ sâu từ 10 – 30m. Chịu đựng được độ mặn rộng từ 11 – 41‰. Phạm vi nhiệt độ thích hợp từ 22 – 28oC. Thích hợp nhất là từ 25-28oC. Ở nhiệt độ 18oC cá bắt đầu ít ăn. Ở nhiệt độ 15oC, cá gần như ngưng hoạt động. Cá mú thuộc nhóm cá dữ ăn mồi động vật. Thường rình bắt mồi ở nơi yên tĩnh. Cá mú tranh ăn dữ dội, con lớn lấn át con bé, khi đói thiếu mồi ăn, chúng ăn lẫn nhau. Đặc tính này thể hiện ngay ở giai đoạn cá con. Vì vậy trong quá trình nuôi phải thường xuyên san cỡ đồng đều nuôi riêng.
Cá mú đẻ trứng nổi, có hạt dầu ở trong. Mùa đẻ của cá mú vùng phía Bắc vào tháng 5,7. Vùng miền Trung vào tháng 12,3. Cá mú thuộc nhóm cá chuyển giới tính đực cái. Khi còn nhỏ đều là cá cái, khi lớn đều là cá đực. Như cá mú mỡ, cá dưới 50cm đều là cá cái. Khi đạt 70cm trở lên chuyển thành cá đực.
Dấu hiệu đặc trưng của bệnh hoại tử
Đây là dấu hiệu đặc trưng của bệnh hoại tử thần kinh ở các loài cá biển (Viral nervous necrosis- VNN). Bệnh này còn có một số tên gọi khác. Như: bệnh virus viêm màng lưới não của cá biển, bệnh cá bơi xoắn, bệnh cá mú liệt, bệnh cá điên… Đây là bệnh nguy hiểm trong nuôi cá biển. Bệnh gây chết nhiều ở giai đoạn cá con. Đặc biệt là cá dưới 20 ngày tuổi. Bệnh phát triển mạnh vào mùa có nhiệt độ cao. Tác nhân gây bệnh là vi rút Nodavirus ký sinh trong tế bào chất của các tế bào thần kinh ở não và ở võng mạc mắt.
Dấu hiệu bệnh lý: Cá dưới 20 ngày tuổi bị bệnh không có dấu hiệu bệnh lý rõ ràng. Cá 20 – 45 ngày tuổi bị bệnh có dấu hiệu yếu, bơi gần tầng mặt. Cá 45 – 120 ngày tuổi, khi bị bệnh bơi không định hướng, quay tròn hoặc xoáy trôn ốc, kém ăn hoặc bỏ ăn, thân đen xám. Đặc biệt đuôi và các vây chuyển màu đen, bóng hơi căng phồng.
Cá bị bệnh hoạt động yếu, hôn mê, đầu treo trên mặt nước hoặc nằm dưới đáy bể hoặc đáy lồng. Nếu mổ cá sẽ thấy ruột không có thức ăn. Nhưng chứa đầy chất dịch màu xanh hay màu nâu nhạt, lá lách có chấm đỏ. Cá mẹ bị bệnh có thể truyền nhiễm sang cá con. Virus từ cá bệnh có thể theo dịch tiết vào môi trường nước, xâm nhập vào cá khỏe qua mang, da và miệng.
Biện pháp phòng bệnh cho cá mú
Lựa chọn cá bố mẹ không mang virus bằng cách kiểm tra trứng cá trước khi cho cá đẻ bằng kỹ thuật PCR. Sát trùng bể ương và dụng cụ bằng Chlorine 100 ppm 1 tuần/lần. Và rửa kỹ lại bằng nước sạch trước khi sử dụng. Loại bỏ những đàn cá bột khi đã phát hiện VNN dương tính (+) thông qua kỹ thuật PCR. Tăng hoạt động trao đổi nước trong bể ương ấu trùng để đảm bảo môi trường tốt và loại bỏ bớt tác nhân.
Đối với cá nuôi lồng bè trên biển, vẫn biết rằng thả giống kích cỡ nhỏ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhưng do nguy cơ của bệnh VNN gây tác hại lớn ở giống cỡ nhỏ. Vì vậy khuyến cáo bà con thả giống cỡ lớn để hạn chế tác hại của bệnh VNN. Dùng vắc-xin và các chất kích thích miễn dịch AMINO PHOSPHORIC ACID. Đây giải pháp có hiệu quả nhất để phòng bệnh này. Hy vọng bài viết của 2findx.com giúp quý độc giả có thêm nhiều thông tin hữu ích.