Cá kèo hay còn có tên gọi là cá bống kèo, đây là một trong những loài thủy sản đặc trưng của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, được phân bố rộng ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cà Mau, và Bến Tre. Cá kèo được khai thác rất nhiều ở các vùng ven biển và ở cửa sông. Hiện nay, cá kèo đang trở thành một đối tượng nuôi mang lại hiệu quả kinh tế cao, do cá kèo có thịt thơm ngon và được rất nhiều người ưa chuộng, cá còn có thể dùng làm thực phẩm tươi hoặc khô. Nhưng để nuôi được chúng thì bạn phải nắm rõ những bệnh thường hay gặp ở cá. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu về các loại bệnh và cách phòng cho cá nhé!
Mục lục
Cá kèo được nuôi ở đâu?

Nuôi cá kèo bước đầu phát triển ở một số địa phương như Bạc Liêu, Trà Vỉnh, Sóc Trăng và sau đó lan ra nhiều địa phương khác ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Cá là đối tượng dễ nuôi, sinh trưởng và phát triển tốt trong các loại hình mặt nước. Hiện nay các ao đầm nuôi tôm, ruộng muốỉ của các địa phương ở Đồng bằng Sông Cửu Long cũng đã được sử dụng để nuôi cá bông kèo, góp phần đa dạng hoá loài và mô hình nuôi, khai thác hiệu quả tiềm năng diện tích canh tác của nông hộ và đã mở ra một hướng đi mới trong nuôi trồng thủy sản ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long.
Cá kèo đã mang lại nguồn thu quan trọng cho nhiều nông hộ trong vùng nhất là khi việc nuôi tôm sú ngày càng gặp nhiều rủi ro. Diện tích nuôi cá kèo đã tăng nhanh, tại Sóc Trăng, đã có lúc diện tích thả nuôi đạt hơn 400 ha. Nhiều mô hình nuôi hiệu quả như mô hình nuôi cá kèo bán thâm canh dưới ao nuôi tôm sú. Ngồi ra một số địa phương ỏ Bạc Liêu cũng phát triển mô hình nuôi cố kèo quảng canh và luân canh trong chân ruộng sản xuất muối. Người dân còn nuôi cá kèo kết hợp với tôm cua, nuôi cá kèo sau khi thu hoạch tôm thâm canh và bán thâm canh như ở Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú (Bến Tre), Gò Công (Tiền Giang), Duyên Hải (Trà vinh).
Bệnh tuột nhớt ở cá kèo

Nguyên nhân
Do vi khuẩn Pseudomonas dermoalba gây ra. Bệnh phát sinh do cá bị sây sát trong đánh bắt, vận chuyển hoặc do môi trường nước thay đổi đột ngột. Bệnh có khả năng lây lan rất nhanh giữa các cá thể trong cùng 1 ao và giữa các ao. Triệu chứng: toàn thân bao phủ một lớp nhớt màu trắng đục. Cá tách đàn, bơi lờ đờ, bỏ ăn. Khi bệnh nặng, mình cá lở loét, vây rách nát, sau đó cá chết rất nhanh.
Phòng bệnh
Luôn giữ môi trường nước trong ao sạch, không bị ô nhiễm. Chọn giống khỏe, vận chuyển đúng quy trình để cá khỏe, không bị sây sát. Nếu nuôi thâm canh, định kỳ 10 -15 ngày xử lý nước và đáy ao bằng các chế phẩm vi sinh. Đảm bảo đầy đủ thức ăn cho cá phát triển khỏe mạnh, định kỳ bổ sung vitamin và khoáng chất vào thức ăn giúp cá tăng cường sức đề kháng.
Trị bệnh
Biện pháp xử lý đầu tiên khi cá nhiễm bệnh là thay 20-30% nước trong ao bằng nguồn nước sạch, vệ sinh xung quanh ao. Dùng thuốc diệt khuẩn xử lý nước trong ao. Dùng thuốc điều trị trộn vào thức ăn theo đúng liều lượng.
Rải vôi sát khuẩn bờ ao, tránh lây lan rộng. Không dùng chung dụng cụ chăm sóc của ao bị nhiễm bệnh với ao chưa bị nhiễm bệnh. Không dùng kháng sinh để phòng bệnh. Nếu phải điều trị bệnh bằng kháng sinh thì ngưng sử dụng thuốc 4 tuần trước khi thu hoạch.
Một số bệnh thường gặp khác
Bệnh trắng đuôi:
- Nguyên nhân: Do vi khuẩn Pseudomonas dermoalba gây ra.
- Triệu chứng: trên đuôi có các đốm trắng, sau đó lây lan đến vây lưng, vây hậu môn. Dần dần đuôi và vây bị xuất huyết, rách nát. Khi bệnh nặng, cá bỏ ăn, bơi lờ đờ, đầu chúi xuống hoặc treo lơ lửng trên mặt nước.
Bệnh nhiễm khuẩn huyết Aeromonas:
- Nguyên nhân: Do các vi khuẩn Aeromonas (A.hydrophil, A. caviae, A. sobria) gây ra. Bệnh phát sinh khi môi trường ô nhiễm, oxy hòa tan thấp, nuôi mật độ dày. Bệnh có thể xuất hiện quanh năm.
- Triệu chứng: Mình cá có những mảng đỏ với nhiều khối u, bụng có từng vùng sẫm màu, lưng có nhiều vết thương, đuôi và vây bị hoại tử, mắt đục, lồi, sưng phù, hậu môn sưng to. Cá bỏ ăn, nổi nghiêng hoặc nổi đứng lờ đờ trên mặt nước.