Theo 2findx được biết, tôm càng xanh chính là loài tôm bản địa mang lại giá trị kinh tế cao, giá bán thường dao động từ >200 ngàn đồng/kg. Chính vì thế, rất nhiều người dân đã lựa chọn phát triển nghề nuôi tôm càng xanh, đặc biệt có rất nhiều ở vùng ĐBSCL. Thế nhưng, vào những năm gần đây, do ảnh hưởng có biến đổi khí hậu, vùng nuôi bị ngọt hóa với thời gian kéo dài, điều này đã làm cho việc nuôi tôm càng xanh ngày càng trở nên khó khăn hơn. Để giải quyết được điều này, hôm nay 2findx sẽ gửi đến người dân phương pháp nuôi tôm càng xanh bán thâm canh, phát triển tốt hơn, mang lại lợi nhuận cho người dân.
Mục lục
Cần cải tạo, cũng như xử lý ao đúng chuẩn

Hệ thống ao gồm ao nuôi tôm chiếm 70% diện tích mặt nước, ao lắng chiếm 30% diện tích mặt nước. Trước mỗi vụ nuôi cần xả cạn nước, xảm mọi, gia cố bờ bọng-cống rãnh, tiến hành bón vôi. Dùng vôi nông nghiệp CaCO3 bón với lượng 7 – 10 kg/100 m2 (đối với ao có độ phèn > 6). Bón với lượng 15 – 20 kg/100 m2 (đối với ao có độ phèn > 4.5).
Sau khi bón vôi thì tiến hành phơi nắng, thường thời gian phơi nắng từ 3 – 5 ngày. Lấy nước vào ao thông qua lưới chắn cá tạp, địch hại. Mực nước phù hợp từ 1.2 – 1.5 m. Sau khi lấy đủ nước thì tiến hành diệt tạp, sử dụng Saponine liều lượng 1 kg/100 m. Diệt tập 3 – 5 ngày thì tiến hành bón phân. Sử dụng 2 lọai phân gồm phân hữu cơ và phân vô cơ.
Với phân hữu cơ, dùng các loại phân chuồng, đã qua ủ hoai, bón với lượng 25 – 30 kg/100 m2 ao. Nếu dùng phân vô cơ, có thể sử dụng DAP bón với lượng 300 – 500 g/100 m2 ao (trường hợp màu nước lên chậm có thể hỗ trợ thêm 1 kg bột cá. 1 kg bột đậu nành, 1 kg bánh dầu/100 m2 ao). Khi thấy nước có màu xanh đọt chuối non thì tiến hành thả giống.
Lựa chọn, thả và ương con giống
Chọn giống
Chiều dài thân tôm post 15 tối thiểu từ 1.2 – 1.5 cm, thân hình cân đối, đồng cỡ, màu sắc trong sáng. Hoạt động linh hoạt, cơ thể không dính những cáu bẩn hoặc có những vết lạ. Tôm có đầy đủ những phụ bộ như chân bơi, chân bò, chủy, chân đuôi. Cho tôm vào thau nước quay nhẹ, tôm thường đi ngược nước và tản đều không gom lại giữa thau.
Thả giống
Ngâm bao chứa tôm xuống ao ương giống trong thời gian 15 – 20 phút để nhiệt độ trong bao và ngoài môi trường cân bằng. Nơi thả giống cách bờ 1 – 2 m, mở bao chứa tôm cho tôm ra từ từ.
Ương giống
Thường phải ương thành giống cỡ 2 – 3 cm, hạn chế được hao hụt trong quá trình nuôi. Mật độ ương trung bình từ 200 – 300 postlarvae15/m2. Thời gian ương 30 – 45 ngày, thức ăn trong những ngày đầu gồm cá biển, cá tạp, mực, thịt nhuyễn thể, ốc… nấu chín, xay nhuyễn, cho vào máng để tiện theo dõi theo nhu cầu sử dụng hàng ngày của tôm mà điều chỉnh.
Lượng ăn hàng ngày trong giai đoạn này chiếm 15 – 20% so với trọng lượng thân tôm. Từ tuần ương thứ hai trở đi có thể dùng thức ăn công nghiệp dạng viên cho tôm ăn. Hàng tuần tiến hành thay nước, lượng nước thay bình quân 30 – 60%. Nhằm tránh hiện tượng tôm ăn thịt lẫn nhau khi lột xác, cần đảm bảo trong ao phải có chà, chất chà chiếm từ 40 – 50% diện tích vùng tôm sinh sống (đáy ao), chà làm từ nguyên liệu tre, bần.
Mật độ thả tôm phù hợp với ao
– Nếu thả tôm post15: 15 – 20 con/m2 (trừ tôm hao hụt trong quá trình thả nuôi).
– Nếu thả giống cỡ 2 – 3 cm: thả 10 – 12 con/m2.
Lựa chọn thức ăn kỹ lưỡng và chia khẩu phần hợp lý trong ngày
Tôm càng xanh sử dụng được nhiều loại thức ăn khác nhau như ốc, cá tạp, đầu tôm, phế phẩm từ lò mổ, phế phẩm từ nhà máy chế biến thủy sản, thịt mực, thịt nhuyễn thể… Thức ăn có nguồn gốc từ động vật là chính. Ngoài ra, có thể dùng thức ăn công nghiệp dạng viên có hàm lượng đạm >25%, tuỳ theo kích thước tôm mà sử dụng kích cỡ viên khác nhau. Hoặc tự chế biến thức ăn tại chỗ bằng các nguyên liệu sẵn có tại địa phương gồm: bột cá 25%, bột đậu nành 20%, bột xương 2%, bột lá gòn 5%, Premix.C 2%, dầu mực 1%, cám gạo 35%, bột mì 10%.
Tốt nhất nên cho tôm ăn thức ăn viên công nghiệp, có độ đạm từ 30 – 40%, kích cỡ viên thức ăn phù hợp với giai đoạn phát triển của tôm. Giai đoạn đầu có thể sử dụng thức ăn cho tôm sú hoặc TTCT. Giai đoạn sau có thể sử dụng xen (1 lần/ngày), với thức ăn tự chế biến đã nấu chín để giảm chi phí. Hàng ngày cho tôm ăn 2 – 3 lần/ngày. Tháng nuôi đầu tiên cho ăn với lượng 8 – 10% tổng trọng lượng đàn tôm. Sau 1 tháng nuôi, lượng cho ăn khoảng 5 – 7% tổng trọng lượng đàn tôm. Đồng thời, có thể dùng sàng ăn để điều chỉnh lượng thức ăn sao cho phù hợp.
Quản lý môi trường ao nuôi tôm càng xanh

Cần duy trì các yếu tố môi trường trong khoảng tối ưu hoặc trong các trường hợp có sự thay đổi, thì biên độ của sự thay đổi càng nhỏ là càng tốt.
Chế độ quạt nước, sục khí: Nhu cầu máy quạt nước cho ao nuôi như sau: Ao có độ sâu nhỏ hơn 1.2m, diện tích từ 1.000 m2 – 4.000m2, cần 2 giàn quạt nước và mỗi giàn quạt nước bố trí từ: 12 – 15 cánh quạt. Ao có độ sâu trên 1.2m và diện tích 4.000m2 trở lên. Cần bố trí 4 giàn quạt và mỗi giàn quạt bố trí từ: 12 – 15 cánh. Ngoài ra có thể bổ sung hệ thống máy sục khí để cung cấp oxy cho tôm nuôi.
Thay nước: cần chủ động và thay nước thường xuyên, lượng nước thay từ 20 – 30% nước trong ao nuôi. Khi cấp nước cần kiểm tra các yếu tố môi trường trong ao lắng và ao nuôi phải có sự tương đồng. Đảm bảo chất lượng nguồn nước cấp vào không bị ô nhiễm.
Theo dõi và quản lý sức khỏe tôm nuôi: Hàng tuần cần chài tôm để quan sát đường ruột nhằm đánh giá mức độ bắt mồi. Những dấu hiệu của bệnh trên tôm (quan sát mang, màu sắc, khối cơ, những biến dạng khác của tôm…). Cần theo dõi và dự đoán thời kỳ lột xác của đàn tôm nuôi trong ao. Để có những điều chỉnh về lượng thức ăn, quạt nước, sục khí, hoặc chuẩn bị thu hoạch…
Thời gian thu hoạch tôm
Sau thời gian nuôi khoảng 5 – 6 tháng có thể tiến hành thu hoạch. Việc thu hoạch cần lưu ý đến kích cỡ, chất lượng tôm nuôi và giá cả thị trường. Thu hoạch tôm càng xanh cần phải tiến hành thu nhiều lần. Thực hiện các biện pháp nhằm để tôm không bị chết ngạt.